Học tiếng Đức để làm gì ?
(04/02/2018) | Tin tứcVề văn hóa, tính chung mỗi năm có trên dưới 60 ngàn tựa sách mới được xuất bản bằng tiếng Đức, chiếm khoảng 18% tổng số toàn thế giới, chỉ sau tiếng Anh và tiếng Hoa (và tính ra nhiều hơn số tựa sách mới được xuất bản tại Mỹ đến cả 30%!). Việc biên soạn và đăng tải các công trình khoa học kỹ thuật bằng tiếng Đức cũng rất phổ biến, chỉ đứng sau tiếng Anh. Trong thương mại hay du lịch cũng vậy, nhất là từ khi Liên minh châu Âu (EU) mở rộng ra Trung và Đông Âu, vai trò của tiếng Đức ngày càng trở nên quan trọng hơn. Cộng vào đó, do có rất nhiều sinh viên từ các nước châu Phi, châu Á hay Trung Đông sang Đức du học mà tiếng Đức lại có dịp được phổ biến thêm trong những môi trường mới này. Ngay cả trên Internet, số lượng các trang bằng tiếng Đức chỉ đứng sau tiếng Anh, còn lại thì vượt xa các ngôn ngữ khác.
Hiện nay trên khắp thế giới ước tính có khoảng 16 triệu người đang học ngoại ngữ là tiếng Đức. Vì với tiếng Đức bạn không chỉ có thể tiếp cận được với một trong những nền văn hóa lớn của phương Tây mà còn tận dụng được nhiều cơ hội trong công việc làm ăn nữa.
Người Việt học tiếng Đức có khó không?
Trái với chính lối nghĩ của người Đức, học tiếng Đức không phải là chuyện khó lắm. Nếu bạn đã có một số vốn liếng ngoại ngữ Tây phương như tiếng Pháp hay tiếng Anh chẳng hạn thì việc học tiếng Đức có thể dễ dàng hơn đôi chút. Thí dụ như đã quen với chuyện các danh từ tiếng Pháp có giới tính (và do đó mà biến thể lúc dùng trong câu) thì khi gặp tiếng Đức sẽ bớt bị bỡ ngỡ. Ai thạo tiếng Anh thì sẽ nhận ra rất nhiều từ vựng tương đối quen thuộc trong tiếng Đức vì hai ngôn ngữ này có cùng nguồn gốc. Nếu bạn biết phát âm các âm trong tiếng Pháp thì sẽ dễ dàng phát âm phần lớn các âm trong tiếng Đức. Mặt khác, các từ tiếng Đức thường có khuynh hướng nhấn giọng những âm đầu giống như trong tiếng Anh. Và nếu có căn bản tiếng La Tinh thì học ngữ pháp tiếng Đức không có gì khó khăn nữa cả.
Nhưng đó chỉ là dễ dàng cho lúc đầu thôi. Theo kinh nghiệm và quan sát của riêng tôi, ngay cả người có tiếng mẹ đẻ là tiếng Pháp hay tiếng Anh không hẳn là sẽ học tiếng Đức nhanh hoặc giỏi hơn người Việt mình (người Pháp nói tiếng Đức hầu như lúc nào cũng có giọng Pháp rất buồn cười, người Anh thì chính vì sự gần gũi ngôn ngữ mà thường dùng từ hay thành ngữ sai, ngay cả trong các bản dịch của các nhà xuất bản lớn). Mặt khác, tuy cũng lâu đời như tiếng Anh nhưng cách viết tiếng Đức chỉ mới được chuẩn hóa thực sự từ thế kỷ 15-16, và mới đây họ lại vừa cải cách lại chính tả – mà chắc cũng chưa phải là lần cuối. Do đó mà cũng như chữ Quốc ngữ, tiếng Đức có vẻ “hợp lý” vì phần lớn viết sao đọc vậy và hầu như có thể “đánh vần” giống tiếng Việt mình vậy (không như tiếng Anh, viết một đàng đọc một nẻo!). Rất nhiều âm tiếng Đức giống như âm tiếng Việt: chẳng hạn ch trong một số trường hợp phát âm rất giống kh của tiếng Việt; âm h cũng vậy, không “câm” như trong tiếng Pháp, Ý.
Trên đây chỉ là vài thí dụ nhỏ theo cách nhìn chủ quan của tôi thôi. Học tiếng Đức – cũng như học các ngoại ngữ khác – cần nhất là phải thực tập nhiều, nhất là về khả năng nghe/hiểu và nói. Hy vọng bài viết này có thể giúp các bạn hình dung được phần nào ngôn ngữ này, và có khi làm bạn tò mò tìm đến nó nữa.
Đây chỉ là cách đọc các chữ cái để tạo cho bạn một khái niệm đầu tiên về âm tiếng Đức thôi. Phạm vi bài này không thể giới thiệu hết cách phát âm các nguyên âm (khi nào “ngắn”, khi nào “dài”), phụ âm (cũng có khi vầy khi khác), ngoài ra cũng như trong các thứ tiếng khác lại còn có những nguyên âm kép, phụ âm kép v.v. (và theo tôi quan niệm, khó ai có thể học ngôn ngữ chỉ qua bài vở, dù là có hay và đầy đủ cách mấy – ngoại trừ các cổ ngữ). Tuy vậy, các bạn đã có thể biết người Đức gọi tên các hiệu xe VW (viết tắt của Volkswagen) và BMW (Bayerische Motoren Werke) ra sao.
Ở trên chắc các bạn đã nhận thấy chỉ có ä, ü, ö và ß là những chữ cái đặc biệt của tiếng Đức. Ngoại trừ ß – có lẽ vì không bao giờ đứng ở đầu một từ – chúng đều có dạng viết thường và viết hoa. Dưới đây các bạn sẽ thấy tiếng Đức viết hoa nhiều lắm! Nếu ai không có bàn phím Đức thì để đánh được đúng những chữ đặc biệt này phải dùng đến bảng ký hiệu (như trong MS Word chẳng hạn) hay đánh qua mã số ASCII 8bit. Hoặc giống như ngày xưa, thuở máy tính còn phôi thai, ASCII 8bit với những mã chữ này còn chưa phổ biến và dĩ nhiên là chưa có Unicode, bạn có thể đánh thế ä thành ae, ö thành oe, ü thành ue và ß thành ss. Tuy nhiên có nhiều trường hợp viết như vậy là sai chính tả, phát âm cũng khác hoặc có khi khác cả nghĩa nữa (tương tự như viết tiếng Việt thiếu dấu giọng). Mặc dù vậy, ở Thụy Sĩ ngày nay, người ta hầu như thay hẳn ß bằng ss.
Đại từ nhân xưng (Personalpronomen)
Tương tự như các ngôn ngữ khác, đại từ nhân xưng trong tiếng Đức có thể chia ra là 3 ngôi (Person), và phân biệt số nhiều (Plural) hay số ít (Singular), giống cái (feminin), giống đực (maskulin) và trung tính (neutral):
ngôi | tiếng Đức | tiếng Anh | tiếng Pháp | |
số ít | 1. | ich | I | je |
2. | du | you | tu | |
3. | er (maskulin), sie (feminin), es (neutral) |
he (masculine), she (feminine), it (mostly for objects) |
il (masculin), elle (féminin) |
|
số nhiều | 1. | wir | we | nous |
2. | ihr | you | vous, vous (formel) | |
3. | sie, Sie (formell) | they | ils, elles |
Qua bảng đối chiếu trên chúng ta dễ thấy rằng tiếng Đức rất gần với tiếng Anh (vì thật ra tiếng Anh chính là một phương ngữ của tiếng Đức cổ, du nhập vào các đảo ở Anh rồi thời gian sau đó hòa trộn với tiếng Đan Mạch xưa mà thành).
Tuy vậy cũng có vài điểm khác biệt:
- đại từ ngôi thứ 3 số ít es trong tiếng Đức tuy tương ứng với it của tiếng Anh, nhưng phải sử dụng đúng trong trường hợp thay thế cho một danh từ trung tính (neutral), cho dù danh từ đó có là đồ vật, khái niệm hay con người.
- đại từ ich trong tiếng Đức không luôn luôn viết hoa như I trong tiếng Anh, trừ khi đứng đầu câu hay dùng như danh từ (das Ich=cái tôi).
- tiếng Đức lại còn có đại từ cho cách gọi trang trọng hay nghi thức là Sie (lúc nào cũng viết hoa, cho dù ở giữa câu). Cách gọi Sie này tương tự như vous của tiếng Pháp, dùng gọi người đối diện (và dùng chung cho một người hay nhiều người, nam hay nữ không phân biệt). Nhưng (nhất là ai biết tiếng Pháp) phải để ý là về mặt ngữ pháp Sie là đại từ ngôi thứ 3 số nhiều (ở vài địa phương có khi người ta còn nói “trỏng”, gọi người đối diện bằng er, tức là ngôi thứ 3 số ít, tuy khá hiếm). Thật ra tiếng Anh cho đến khoảng 1600 (thời Shakespeare) vẫn còn lối gọi trang trọng thou (số ít) và ye (số nhiều), song song với dạng thân mật you mà sau này dần dần đẩy lùi hai dạng kia.
Thêm vào đó có vài điểm nên để ý là trong tiếng Đức ngôi thứ 3 số ít giống cái sie (=bà ta, cô ấy, v.v.) giống y như ngôi thứ 3 số nhiều (tuy khác nghĩa, khác cách chia động từ và khác cách biến thể, sẽ đề cập sau).
- trong khi đó ngôi thứ 3 số nhiều sie (=họ, những thứ này, bọn ấy, v.v.) dùng chung cho cả giống cái, giống đực và trung tính (giống tiếng Anh điểm này, không phân biệt giới tính, nhưng khác với tiếng Pháp).
Và chắc hẳn là để người học đừng coi thường, cho là tiếng Đức quá dễ (!), ihr (=tụi bay, mấy cô, các anh v.v.) lại giống hệt như ihr (=cho cô ấy, với bà ta, v.v., tương ứng vớiher trong tiếng Anh) đại từ nhân xưng ngôi thứ 3, số ít, giống cái ở thể Dativ, và cũng giống ihr (chẳng hạn ihr Buch=quyển sách của cô ấy, của tụi nó v.v.) là tính từ sở hữu (Possessivadjektiv) tương ứng với sie ở thể Nominativ hay Akkusativ!
Có vẻ rắc rối thật, nhưng đừng lo, về sau các bạn sẽ thấy thực ra tiếng Đức rất rõ ràng và khoa học, không dễ lộn đâu! Và nhờ đó mà diễn đạt trong tiếng Đức rất chính xác và lại uyển chuyển hơn hẳn tiếng Anh hay tiếng Pháp nữa.
Danh từ (Substantiv)
Như trên đã có nói sơ, danh từ tiếng Đức có một trong 3 giới tính (Genus): giống cái (Femininum), giống đực (Maskulinum) và trung tính (Neutrum), tương tự như tiếng La Tinh, tiếng Hy Lạp hay tiếng Nga (các ngôn ngữ Bắc Âu hay Hòa Lan còn phân biệt thêm một loại giới tính “chung” nữa!). Danh từ trong tiếng Đức lại có thể thay đổi tùy dạng số ít hay số nhiều (Numerus), và còn biến thể tùy theo công dụng trong câu (Kasus) nữa. Ba thứ này Genus, Numerus và Kasus kiểm soát và xác định hoàn toàn hình thái của các danh từ.
Biến thái ra sao đi nữa thì các danh từ tiếng Đức hầu như đều giữ đặc điểm là khi nào cũng viết hoa, không chỉ khi đứng đầu câu, và không chỉ khi là danh từ riêng. Nguyên tắc này cũng áp dụng cho các động từ hay tính từ khi được dùng như danh từ. Cũng như người ta hay nói “trên nguyên tắc”, ở đây cũng có vài ngoại lệ, thí dụ như:
ein paar Zigaretten (vài điếu thuốc) – theo nghĩa này paar không viết hoa, dù là danh từ
ein Paar Schuhe (một đôi giày) – theo nghĩa này Paar lại viết hoa
Thông thường danh từ có mạo từ (Artikel) đi cùng. Ở đây chúng ta chỉ làm quen với các mạo từ xác định như der (giống đực), die (giống cái), das (trung tính) và các mạo từ bất định tương ứng ein, eine, ein:
das Buch – cuốn sách (này), die Bücher – những quyển sách (này)
ein Buch – một quyển sách (nào đó hay nói chung), einige Bücher – một vài quyển sách
Die là mạo từ số nhiều, dùng chung cho cả 3 giới tính, còn ein paar, einige (một vài/some/quelques), mehrere (nhiều/several/plusieurs), viele (nhiều/many/beaucoup) là một vài từ chỉ số nhiều bất định thông dụng, danh từ đi cùng phải thành số nhiều.
Dưới đây là một vài thí dụ khác (trong thể Nominativ, tức là danh từ lãnh vai trò chủ từ):
Singular | Plural | ||
Feminina | die Schale/eine Schale die Mutter/eine Mutter die Treue |
die Schalen/(viele) Schalen die Mütter/(einige) Mütter – |
cái tô người mẹ sự trung thành (không có số nhiều) |
Maskulina | der Krug/ein Krug der Briefträger/ein Briefträger der Traum/ein Traum |
die Krüge/(mehrere) Krüge die Briefträger/(einige) Briefträger die Träume/(viele) Träume |
cái vại (uống bia chẳng hạn) người phát thư giấc mơ |
Neutra | das Glas/ein Glas das Mädchen/ein Mädchen das Gebäude/ein Gebäude |
die Gläser/(viele) Gläser die Mädchen/(einige) Mädchen die Gebäude/(ein paar) Gebäude |
cái ly em bé gái tòa nhà |
Cũng có khi danh từ chỉ đứng một mình mà không dùng đến mạo từ như:
Frankreich hat eine größere Fläche als Deutschland. (Pháp có diện tích lớn hơn Đức.)
Frankreich và Deutschland đều cùng là danh từ (riêng) trung tính. Nhưng không phải lúc nào tên một quốc gia cũng trung tính, và không dùng mạo từ:
Die Schweiz hat eine viel kleinere Fläche als Frankreich. (Thụy Sĩ có diện tích nhỏ hơn Đức nhiều.)
và ngược lại trong trường hợp sau đây người ta lại nói
Das ist das schöne Frankreich! (Đây là nước Pháp xinh đẹp!)
có sử dụng mạo từ.
Theo tôi nhận thấy, giới tính của danh từ trong tiếng Đức tốt nhất là phải học thuộc lòng:
- giới tính của một danh từ (Genus) nếu có liên quan gì đến giới tính tự nhiên (Sexus) thì chỉ là ngẫu nhiên: der Mann – người đàn ông, das Weib – đàn bà, das Mädchen – cô gái
- cũng khó suy từ tiếng Pháp chẳng hạn, nếu bạn đã biết tiếng Pháp: der Tisch – la table – cái bàn, das Dutzend – la douzaine – một chục
- thật ra cũng có một số quy tắc hoặc mẹo để nhớ giới tính của vài loại danh từ, nhưng thường thì lúc nào cũng phải học thuộc lòng thêm những ngoại lệ của các quy tắc đó, tính ra lại tốn công nhiều hơn! (Tuy vậy tôi cũng sẽ nêu ở phần dưới một vài quy tắc đáng tin cậy cho các bạn tham khảo.)
Và đã bỏ công học thì nên học thuộc lòng luôn dạng số nhiều của các danh từ nữa, vì phần lớn chúng cũng không theo quy luật nào nhất định (xem các thí dụ trong bảng ở trên).
Chắc các bạn tự hỏi tại sao giới tính các từ trong tiếng Đức (và nhiều thứ tiếng khác) phiền phức như vậy mà không bị đào thải như trong tiếng Anh cho dễ học? Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta xem thí dụ này:
Das Glas fiel auf die Schale, aber es zerbrach nicht! (Cái ly rớt lên cái tô, nhưng nó không bể!)
Đọc câu dịch ra tiếng Việt chắc các bạn đã hiểu câu trả lời ra sao rồi: do đại từ “nó” trong tiếng Việt không biểu hiện được chính xác cái ly hay cái tô nên không thể chắc chắn từ câu này mà suy ra cái gì không bể. Còn câu tiếng Đức thì cũng chỉ bao nhiêu đó mà lại diễn tả rất chính xác là cái ly không bể: “es” là đại từ trung tính nên chỉ có thể biểu hiện “das Glas” và hoàn toàn không liên quan gì đến “die Schale” cả. Câu tương đương như vậy trong tiếng Anh sẽ là
The glass fell onto the bowl, but it did not break!
và người đọc người nghe cũng mắc phải nghi vấn như trường hợp tiếng Việt. Nếu muốn thể hiện đúng ý thì không thể diễn đạt ngắn gọn được như trong tiếng Đức mà phải nói rườm rà hơn, chẳng hạn:
The glass fell onto the bowl, but the glass did not break! (Cái ly rớt lên cái tô, nhưng cái ly không bể!)
Xem Thêm: Dịch thuật tiếng Đức